Ngày 24/11, Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021 được tổ chức nhằm đánh giá việc triển khai đường lối, chủ trương của Đảng về công tác văn hóa, văn nghệ thời gian qua; kết quả xây dựng văn hóa, con người Việt Nam sau 35 năm đổi mới đất nước. Đặc biệt, Hội nghị còn đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng về công tác văn hóa, văn nghệ…; từ đó đề ra phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm phát triển văn hóa, văn nghệ giai đoạn 2021-2026, tầm nhìn đến 2045 dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng.
Đề cập ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt của Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng cho biết: Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần này mang tính lịch sử, được tổ chức vào thời điểm có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đánh dấu một giai đoạn chuyển mình mới của cả dân tộc, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay". Vì thế, Hội nghị sẽ trở thành một động lực khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh thời đại.
Giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc anh em, vừa phong phú, đa dạng trong một chỉnh thể thống nhất (ảnh minh họa Nam Nguyễn)
Văn hóa soi đường cho quốc dân đi
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Người đặc biệt nhấn mạnh đến tầm quan trọng, tính đi trước của văn hóa, coi đây là ngọn lửa soi đường, dẫn lối cho dân tộc đi đến thắng lợi: "Số phận dân ta là ở trong tay dân ta. Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi".
Và với Người, xây dựng nền văn hóa, không chỉ thuần túy quan tâm đến ngành hay lĩnh vực văn hóa riêng biệt mà phải chú trọng đến sự đồng bộ của nhiều yếu tố, từ chính trị, kinh tế, tâm lý, luân lý, xã hội. Trong "Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa 1951", Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị". Trong Di chúc để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".
Với tư cách là hệ giá trị định hướng điều chỉnh nhận thức tư duy, hành vi của mỗi cá nhân cả cộng đồng và xã hội, văn hóa có sức mạnh to lớn: nuôi dưỡng tư tưởng đạo đức và nhân cách con người. Là bộ phận cấu thành đặc sắc của văn hóa, văn học nghệ thuật phải gắn bó mật thiết với đời sống, đấu tranh quyết liệt giữa cũ và mới, giữa cách mạng và phản cách mạng; giữa tích cực và tiêu cực.
Những tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về văn hóa trở thành kim chỉ nam cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong thời kỳ đổi mới, tiến hành phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã từng bước nhận thức toàn diện và sâu sắc hơn về vai trò của văn hóa và việc phát huy nguồn lực văn hóa đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã mở đầu công cuộc đổi mới. Đại hội VII tiếp tục chủ trương đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhằm đưa đất nước đi vào thế ổn định và phát triển. Sau một thời gian khủng hoảng kinh tế - xã hội và sau những biến động phức tạp của tình hình chính trị quốc tế, hai kỳ Đại hội này ưu tiên tập trung xác định đường lối phát triển kinh tế, ổn định xã hội; văn hóa mặc dù được quan tâm phát triển, nhưng chưa được xem là vấn đề trọng tâm. Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 7/1998) đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về "Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc", cho thấy chuyển biến hết sức mạnh mẽ trong nhận thức của Đảng về tầm quan trọng của văn hóa bên cạnh vấn đề phát triển kinh tế và xây dựng Đảng. Nghị quyết khẳng định: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội". Để cụ thể hóa việc phát huy nguồn lực văn hóa cho phát triển, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 Khóa VIII đã nhấn mạnh đến giải pháp xây dựng, ban hành luật pháp và các chính sách văn hóa; đặc biệt, Nghị quyết đã đề cập đến chính sách kinh tế trong văn hóa và chính sách văn hóa trong kinh tế.
Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Mọi hoạt động văn hóa nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Bước phát triển trong quan điểm của Đảng về văn hóa thời kỳ này là nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa.
Vai trò nguồn lực văn hóa đối với phát triển đã được đúc kết trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Cương lĩnh khẳng định: "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển".
Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (năm 2011) của Đảng đã tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII và ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9/6/2014, về "Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước". Trong Nghị quyết này, Đảng nhấn mạnh đến nhiệm vụ xây dựng con người toàn diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, đồng thời bổ sung các nhiệm vụ mới là xây dựng văn hóa trong chính trị và kinh tế; phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Những nhiệm vụ này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc phát huy nguồn lực văn hóa trong sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh tế - xã hội.
Nhận thức mới có tính đột phá của Đảng về nguồn lực văn hóa đối với phát triển được thể hiện ở việc khẳng định vai trò của văn hóa trong chính trị và trong kinh tế. Chính trị và kinh tế là hai lĩnh vực then chốt của xã hội phải được đặt trên nền tảng văn hóa và phải phát huy vai trò của nguồn lực văn hóa đối với việc phát triển hai lĩnh vực trên. Đảng ta nhấn mạnh: "Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội". Đây chính là sự tiếp nối tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội (ảnh minh hoạ: Nam Nguyễnn)
Nguồn lực văn hóa kết tinh tập trung nhất ở con người
Trong "Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020" (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 432/QĐ-TTg, ngày 12/42012) một lần nữa khẳng định quan điểm con người là trung tâm của phát triển bền vững; nhấn mạnh yêu cầu, nhiệm vụ phát huy tối đa nhân tố con người với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững; cần đáp ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, cụ thể hóa các đột phá chiến lược này cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới, trong đó nhấn mạnh: "Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí phấn đấu vươn lên, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".
Nhận thức sâu sắc về vai trò, vị trí của nguồn lực văn hóa, nhất là nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong bối cảnh mới không ít thách thức, nguy cơ với nhiều biến động bất ngờ, khó lường, Đảng ta nhấn mạnh định hướng phát triển đất nước giai đoạn mới cần "phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc", bởi "tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước".
Như vậy, có thể thấy, nhận thức về nguồn lực văn hóa trong chiến lược xây dựng và phát triển đất nước của Đảng ta ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, việc quan tâm chú trọng phát triển nguồn lực văn hóa, con người, phát huy tối đa tiềm năng "sức mạnh mềm" của đất nước là một trong những động lực quan trọng để thúc đẩy xã hội phát triển bền vững, đồng thời nâng cao hình ảnh, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ rõ: "Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững"; "Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại" là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu nhằm đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa, phát triển bền vững đất nước. Văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, trở thành sức mạnh nội sinh, động lực đột phá cho phát triển đất nước và hội nhập quốc tế.
Phát triển công nghiệp văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm
Đề cập đến Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 vừa được Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam phê duyệt, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng nhấn mạnh: Trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm của đất nước, từ nhận thức, quán triệt các quan điểm của Đảng về văn hóa, Bộ đã xây dựng Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030. Trong Chiến lược không tham vọng đặt ra quá nhiều mà chỉ khu trú lại những nhiệm vụ có tính chất trọng tâm, trọng điểm, cố gắng tháo gỡ điểm nghẽn, những vấn đề khó khăn.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho rằng, đầu tiên là phải nâng cao nhận thức đầy đủ nhất về các quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa để tuyên truyền, phát triển và xây dựng văn hóa, con người Việt Nam trước tình hình mới.
Văn hóa là lĩnh vực rộng lớn. Quản lý và điều hành văn hóa, lãnh đạo văn hóa trong bối cảnh mới phải đổi mới tư duy, thay vì làm văn hóa phải chuyển sang quản lý nhà nước về văn hóa. Muốn vậy, phải hoàn thiện về thể chế, chính sách và khuôn khổ pháp lý. Đó là một trong ba đột phá chiến lược mà Đảng ta đã xác định. Ngành văn hóa cần rà soát lại toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật đã thể hiện quan điểm, đường lối của Đảng để xem lĩnh vực nào đang thiếu, cần phải bổ sung, hoàn thiện. Cần phát hiện được những "điểm nghẽn" để xây dựng quy định pháp luật, nói rộng hơn là các luật, nghị định, thông tư theo hướng tiếp cận xây dựng luật là phải tạo ra động lực phát triển.
Tập trung phát triển công nghiệp văn hóa là một trong những nhiệm vụ trọng tâm sẽ được ngành văn hóa đẩy mạnh triển khai trong thời gian tới. Theo đó, phải xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để tạo ra động lực phát triển cho đất nước. Các môi trường văn hóa phải hướng vào có trọng tâm, trọng điểm, toàn diện nhưng phải có điểm nhấn.
Cùng với đó, ngành nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động của văn hóa, bao gồm các hoạt động văn học nghệ thuật với tư cách bồi dưỡng, xây dựng những giá trị chân - thiện - mỹ, hướng con người tới cái đẹp; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc anh em, vừa phong phú, đa dạng trong một chỉnh thể thống nhất. Bên cạnh đó, cần nâng cao chất lượng của các đoàn nghệ thuật, trung tâm nghệ thuật quốc gia. Có những vấn đề nghệ thuật mang tính hàn lâm phải được phổ biến nhưng cũng phải chú ý đến văn hóa quần chúng, từ các phong trào của quần chúng để bổ sung, làm phong phú thêm đời sống văn hóa nghệ thuật.
Một nhiệm vụ hết sức quan trọng khác là bảo vệ và phát huy giá trị di sản. Di sản văn hóa là những báu vật của quốc gia và chúng ta phải có trách nhiệm giữ gìn. Những di sản văn hóa được UNESCO công nhận, di tích cấp quốc gia đặc biệt... phải được tôn tạo, giữ gìn và phát huy. Để từ đó, các di sản kết nối con người tới quá khứ, hiện tại và tương lai, góp phần giúp chúng ta hun đúc cốt cách, hồn cốt dân tộc. Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng nhấn mạnh: Du khách quốc tế đến Việt Nam một phần vì văn hóa, mong muốn khám phá chiều sâu văn hóa, vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và sự mến khách; tìm hiểu những giá trị nghệ thuật riêng có của nước ta...
Tiếp theo là nhiệm vụ phát triển công nghiệp văn hóa. Lĩnh vực này chúng ta chưa đạt được như mong muốn, yêu cầu đặt ra sắp tới khi triển khai Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam là công nghiệp văn hóa phải đạt được tỉ lệ 7% trong GDP.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho rằng, thời gian tới cần tăng cường hội nhập, giao lưu quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam ra nước ngoài. Trong quan điểm hội nhập, ngành văn hóa chú ý nhiều hơn đến kiều bào Việt Nam ở nước ngoài; tiếp thu, chọn lọc những giá trị văn hóa tinh hoa của nhân loại phù hợp với tình hình mới.
Về nhiệm vụ ứng dụng khoa học công nghệ, cần phải xác định đây là sức mạnh để ngành đưa được các thông điệp, giá trị văn hóa đến với đông đảo công chúng.
Cuối cùng, cần phải đầu tư, tìm kiếm các nguồn lực, trong đó nguồn lực đầu tư công của Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với nguồn lực xã hội hóa để huy động sức mạnh của toàn xã hội, tạo hạ tầng đồng bộ cho phát triển văn hóa. Bởi, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, bên cạnh việc phát huy sức mạnh tổng hợp quốc gia (về chính trị, kinh tế, tài nguyên thiên nhiên, con người, nguồn nhân lực, khoa học, công nghệ, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…), thì nguồn lực đầu tư cho văn hóa cũng là một "sức mạnh mềm" quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và nâng cao vị trí, vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế.
Thuỳ Dương
(Nguồn: bvhttdl.gov.vn)